Chiều 21/3, Quốc hội đã xem xét, thảo luận tại hội trường về Dự thảo Luật Báo chí sửa đổi.
Trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Báo chí sửa đổi tại hội trường, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng Quốc hội Đào Trọng Thi cho biết, tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII, các đại biểu Quốc hội đã thảo luận, đóng góp ý kiến về dự án Luật Báo chí (sửa đổi), tập trung chủ yếu vào 8 nhóm vấn đề theo gợi ý thảo luận của Đoàn thư ký kỳ họp.
Ngay sau kỳ họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã chỉ đạo cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan soạn thảo phối hợp với các cơ quan hữu quan nghiêm túc nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội để chỉnh lý dự thảo Luật.
Sau đó, Dự thảo Luật đã được UBTVQH cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý tại Phiên họp thứ 45 (tháng 02/2016) và gửi xin ý kiến các Đoàn Đại biểu quốc hội. Tuy nhiên, hiện còn một số ý kiến khác nhau.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng Quốc hội, có ý kiến đề nghị xem xét đưa một số sản phẩm thông tin có tính chất báo chí như trang thông tin điện tử tổng hợp, mạng xã hội vào điều chỉnh tại luật này. Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị nên tiếp tục điều chỉnh các sản phẩm thông tin trên tại các văn bản dưới luật hiện hành.
Về vấn đề này, ông Đào Trọng Thi cho biết, UBTVQH cho rằng, ở nước ta, báo chí là sản phẩm thông tin do cơ quan báo chí thực hiện. Tuy nhiên, bên cạnh báo chí còn có một số sản phẩm thông tin có tính chất báo chí do cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện như đặc san, bản tin, trang thông tin điện tử tổng hợp, mạng xã hội.
Các sản phẩm này có phương thức tổ chức và quản lý hoạt động khác nhau. Cụ thể là: Đặc san, bản tin, trang thông tin điện tử tổng hợp là những sản phẩm thông tin do cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp xuất bản, có đội ngũ biên tập, có người chịu trách nhiệm về nội dung thông tin và phải được cơ quan quản lý nhà nước về thông tin cấp giấy phép. Dự thảo Luật đã có quy định về đặc san, bản tin (các khoản 18, 19 Điều 3; các Điều 34 và 35).
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng Quốc hội, khác với những sản phẩm trên, mạng xã hội là hệ thống thông tin cung cấp cho người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin.
Mạng xã hội hoạt động trong môi trường ảo, thường không có người chịu trách nhiệm, đồng thời người viết và tham gia bình luận thường cũng chỉ sử dụng biệt danh. Hiện nay, hoạt động của mạng xã hội đang được điều chỉnh bởi Nghị định số 72/2013/NĐ-CP và Nghị định số 174/2013/NĐ-CP.
“Do vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho phép giữ nguyên quy định như dự thảo Luật đối với đặc san, bản tin; đồng thời bổ sung một số quy định phù hợp với đặc điểm của trang thông tin điện tử tổng hợp thể hiện tại các khoản 17 và 20 Điều 3, khoản 13 Điều 9 và Điều 36 dự thảo Luật, còn mạng xã hội để văn bản pháp luật khác điều chỉnh”, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng Quốc hội đề nghị.
Đề cập đến quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí (Chương II), ông Đào Trọng Thi cho biết, đa số ý kiến cho rằng tên Chương II và nội dung của chương chưa chỉ rõ chủ thể của quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí; chưa làm rõ nội dung quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân; trình bày thiếu logic và trùng lặp..
Theo ông Đào Trọng Thi, tiếp thu ý kiến đại biểu, UBTVQH đã bổ sung, chỉnh lý tên Chương II thành Quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân và thiết kế lại chương này theo hướng quy định cụ thể quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân (các Điều 10 và 11 dự thảo Luật); trách nhiệm của cơ quan báo chí, trách nhiệm của nhà nước đối với quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân (Điều 12,13 dự thảo Luật).
Trước ý kiến cho rằng nên cho phép tư nhân được thành lập cơ quan báo chí, UBTVQH cho rằng, dự thảo Luật đã dành một chương (Chương II) quy định quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, trong đó quy định cụ thể công dân được tham gia vào mọi công đoạn trong hoạt động báo chí như: sáng tạo tác phẩm báo chí, cung cấp thông tin cho báo chí, phản hồi thông tin trên báo chí, liên kết với cơ quan báo chí thực hiện sản phẩm báo chí, in và phát hành báo chí.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng Quốc hội, Dự thảo Luật đã quy định cụ thể các lĩnh vực tư nhân được liên kết với cơ quan báo chí. Khoản 2 Điều 14 cũng đã cho phép các cơ sở giáo dục đại học, bệnh viện, viện nghiên cứu trong đó có nhiều cơ sở do tư nhân thành lập, được có tạp chí khoa học.
Từ những phân tích trên đây, UBTVQH cho rằng, quy định như dự thảo Luật là phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước hiện nay.
Trước ý kiến đề nghị quy định nhà báo trong quá trình tác nghiệp phải được coi là người thi hành công vụ để có cơ chế bảo vệ đối tượng này, UBTVQH cho rằng, công vụ là hoạt động do cán bộ, công chức nhân danh Nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân, của xã hội và được pháp luật bảo vệ. Nhà báo tác nghiệp cũng nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân và xã hội, nhưng không nhân danh Nhà nước, không đại diện cho Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ của mình, mà hoạt động theo tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí. Do vậy, không thể coi hoạt động tác nghiệp của nhà báo là thi hành công vụ.
Theo ông Đào Trọng Thi, về cơ chế bảo vệ nhà báo, phóng viên, Luật Báo chí hiện hành và dự thảo Luật đều quy định: nhà báo“được pháp luật bảo hộ trong hoạt động nghề nghiệp. Không ai được đe dọa, uy hiếp tính mạng, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhà báo, phá huỷ, thu giữ phương tiện, tài liệu, cản trở nhà báo hoạt động nghề nghiệp đúng pháp luật”.
Ngoài ra, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự cũng đã quy định hình thức xử phạt đối với những hành vi cản trở nhà báo tác nghiệp như hành hung hay làm thiệt hại tài sản của nhà báo; Nghị định 159/2013/NĐ-CP đã quy định mức xử phạt hành chính cụ thể trong hoạt động báo chí./.
Tuấn Minh (infonet)