Một pháo đài, một thắng cảnh
Trấn Hải thành tọa lạc tại vùng cửa biển Thuận An ngày nay. Cửa biển Thuận An là nơi sông Hương đổ ra phá Tam Giang rồi chảy ra biển Đông, cách Kinh thành Huế về hướng đông khoảng 13 km. Ngay từ khi mới định đô, hoàng đế Gia Long đã nhận thức được tầm quan trọng của cửa biển này đối với kinh thành Huế nên đã củng cố và xây dựng ở nơi này một pháo đài, sau nâng cấp thành một tòa thành, kiên cố để phòng thủ tuyến đường biển tiến vào kinh đô Huế, đặt tên là Trấn Hải đài. Tuy nhiên, nếu đến thăm Trấn Hải đài ngày nay, chúng ta sẽ thấy hiện tòa thành không nằm gần cửa biển, đó là do sau trận lũ năm 1904, cửa biển Thuận An nơi Trấn Hải thành tọa lại đã bị bồi lấp hoàn toàn, cửa biển mới thì trổ ra biển ở khúc làng Thái Dương Hạ, phía bắc thuộc xã Hải Dương, thị xã Hương Trà và phía nam thuộc thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang ngày nay. Dư địa chí Thừa Thiên-Huế cho biết, thành được xây vào năm 1813 dưới thời hoàng đế Gia Long, có tên Trấn Hải đài, có chức năng kiểm soát và điều khiển lưu thông tàu thuyền trong và ngoài nước ra vào cửa biển Thuận An, phòng thủ cho Kinh thành Huế. Đến thời Minh Mạng, các năm 1820, 1826, 1830, 1831, Trấn Hải đài được gia cố thêm. Đến năm 1834, triều đình đổi tên thành Trấn Hải thành và cho xây thêm trên đài một tòa nhà cao gọi là lầu Quan Hải, để kiểm soát mặt biển rõ hơn và cho trồng thêm 9.000 cây dừa để chống xâm thực. Năm 1840, triều đình cho treo trên lầu Quan Hải một đèn lồng lớn đường kính 3 m xem như ngọn hải đăng. Dưới triều Tự Đức, triều đình cho củng cố hệ thống đồn lũy ở Thuận An, xây thêm nhiều đồn bốt để phòng thủ. Kiến trúc của Trấn Hải thành được xây dựng theo kiểu Vauban (kiểu công trình quân sự của phương Tây, lấy theo tên kỹ sư Vauban người Pháp – thực chất ông tên là Sébastien Le Prestre (1633-1707), được phong Hầu tước xứ Vauban nên nhiều người gọi ông là Vauban) với diện tích khoảng 5.000m2, là loại thành lũy mang tính bố phòng rất vững chắc. Thành được xây bằng gạch, chu vi 302,04m, cao 4,40m, dày 12,60m, có hai cửa: cửa chính nhìn về hướng nam, cao 2,60m, rộng 2,16m và cửa phụ ở mặt sau. Trên thành bố trí 99 ụ súng. Quanh chân thành là hệ thống hào rộng 9,04m, sâu 2,40m.
Không chỉ là một công trình quân sự, Trấn Hải thành còn được xem là một trong những thắng cảnh tiêu biểu của đất thần kinh và các hoàng đế nhà Nguyễn thường ra đây, lên lầu Quna Hải ngắm cảnh, làm thơ. Trong chùm thơ Thần kinh thập nhị cảnh do hoàng đế Thiệu Trị sáng tác, bài Thuận Hải quy phàm (Buồn về cửa Thuận) chính là viết về thắng cảnh cửa biển Thuận An và Trấn Hải thành.
Một trận chiến, một nền tự chủ
Trận chiến Trấn Hải thành hay còn được gọi là trận chiến cửa Thuận An diễn ra vào ngày 20 tháng 8 năm 1883. Có thể nói một cách hình tượng, nếu trận chiến thành Điện Hải (Đà Nẵng) diễn ra vào ngày 1/9/1858 là phát súng mở đầu cho việc xâm lược nước ta từ phía biển thì trận hải chiến tại thành Trấn Hải chính là phát súng hoàn tất công cuộc xâm lược đó. Đó là khi thực dân Pháp đã chiếm Gia Định (1859) và các tỉnh Nam Kỳ (1867) sau đó đánh chiếm Bắc Kỳ hai lần vào các năm 1873 và 1882. Cuối cùng, khi biết tin vua Tự Đức băng hà và triều đình kucj đục, tận dụng thời cơ đó, thực dân Pháp quyết định tấn công vào cửa biển Thuận An nhằm uy hiếp kinh đô Huế, ép nhà Nguyễn phải ký hòa ước theo sự sắp đặt của chúng. Trong trận chiến năm 1883 này, lực lượng đổ bộ của Pháp có khoảng 1000 lính dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Amédée Courbet tiến công các pháo đài ven biển có nhiệm vụ bảo vệ đường thủy tiến vào kinh đô Huế.
Tháng 8, Đô đốc Courbet rời vịnh Hạ Long chỉ huy các tàu chiến Bayard, l’Atalante, le Chateau-Renaud, l’Annamite, le Drac, cùng với 2 hộ tống hạm le Lynx và la Vipère. Các tàu chiến chở quân đổ bộ là tàu Bayard và l’Atalante. Tàu le Chateau-Renaud chuyển vận hai đại đội thủy - bộ binh, một đại đội lính tập người An-nam dưới quyền chỉ của các sĩ quan đại úy Pháp Monniot, Sorin và Radiguet - một sĩ quan chỉ huy doanh trại thống đốc, hai đội trọng pháo do đại úy hải pháo Luce - sĩ quan tiếp vận của thống đốc - chỉ huy và 100 lao công người An-nam. Tổng cộng hạm đội Pháp có khoảng 1000 người. Ngày 16 tháng 8 năm 1883, hạm đội Pháp vào cảng Đà Nẵng, tới ngày 18 tháng 8, đoàn tàu chiến thả neo trong vùng cảng Thuận An.
Vào lúc 5h sáng ngày 20/8, Courbet ra lệnh pháo kích các hải đồn phòng thủ của biển Thuận-An. Ba mươi phút sau đó, đội quân thủy - bộ đầu tiên do Poidloue phó hạm trưởng tàu l’ Atalante chỉ huy đổ bộ lên bờ và tiến chiếm ngay hai hải đồn. Đến 8 giờ sáng ngày 20/8, tất cả đại đội thủy bộ binh đều đổ bộ lên bờ và tiến sâu vào làng và bao vây đại hải đồn Trấn Hải. Quân Pháp chỉ có một sĩ quan và năm binh sĩ bị thương. Quân Nam bắn lại suốt ngày hôm đó nhưng do vũ khí quá thua kém nên đến cuối ngày các pháo lũy đều bị phá hủy, lực lượng phòng thủ bị tổn thất hết mà quân Pháp không bị thiệt hại gì. Các hải đồn ở đảo Cây Dừa và ở mặt phía Nam chống trả mạnh mẽ nhưng cũng bị tàu chiến và hải quân Pháp bắn hạ vào buổi sáng ngày 21/8. Cuộc đánh chiếm Thuận An hoàn tất. Phía quân binh triều đình Huế có 600 tử trận và vô số bị thương. Các quan phòng giữ các hải đồn như quan trấn thành là Lê Sĩ, Lê Chuẩn tử trận, Lâm Hoành, Trần Thúc Nhân nhảy xuống sông tự tử. Quan thương bạc của triều đình Huế là Nguyễn Trọng Hợp yêu cầu ngưng chiến nhưng chỉ được quân Pháp chấp thuận với điều kiện là quan binh Đại Nam phải rút lui ra khỏi tất cả các đồn phòng thủ cửa biển Thuận An và các đồn bót dọc trên tuyến đường Thuận An đi vào Huế cũng như phải trả lại hai tàu chiến le Scorpion và le D’ Entrcasteaux mà người Pháp đã trao tặng cho hoàng đế Tự Đức năm 1874. Sau khi mất cửa Thuận An, dưới sức ép quân sự của Pháp, ngày 25 tháng 8, nhà Nguyễn phải chấp thuận ký hòa ước Harmand với Pháp, theo đó chấp thuận sự bảo hộ của Pháp tại Bắc Kỳ.
Mặc dù Trấn Hải thành thất thủ, nhưng lòng quả cảm của quân dân nước Việt đã làm quân Pháp cảm phục. Trong hồi ký của mình, Destelan, một sĩ quan chỉ huy chiến hạm Pháp sau khi chiếm thành đã ghi lại: "Các pháo thủ đã chết trên các khẩu đại bác của họ, họ là những người dũng cảm. Họ nằm xuống và cát vùi họ vào lòng đất ở sau những khẩu đại bác làm cho họ trở nên tuyệt vời...". Còn nói về sự chênh lệch hỏa lực và khí tài, sĩ quan Julien Viaud và cũng là nhà văn với bút danh Pierre Loti - một người trực tiếp tham gia trực tiếp trận chiến này, một người không mang tư tưởng thực dân – đã viết: “Những viên đạn tròn không đạt đến đích, rơi trên biển gây ra những xoáy nước. Chỉ có vài chiếc thuyền hộ tống lại gần mới bị trúng, còn những tàu bọc sắt đứng xa thì chẳng sợ gì ; từ tàu thấy những viên đạn nhảy nhót nảy thia lia trên mặt nước như những gan bàn tay con trẻ rồi biến mất. Không mấy chốc, sau lưng đồn gác, những ngọn lửa hồng từ các đám cháy do đạn súng cối gây ra trong làng bốc lên, lên rất mau, đồng thời cùng một lớp khói dày. Cuộc oanh tạc tiếp tục. Mặc dù tàu tròng trành khó bắn, những viên đạn rơi vào địch quân, lật nhào mọi vật nhưng họ vẫn cầm cự, tăng lanh bắn trả. Chắc chắn họ phải là những người dũng cảm”. Còn để tỏ lòng thương tiếc những chiến sĩ và nhân dân hy sinh trong trận đánh này, người dân địa phương đã gom toàn bộ thi thể chôn thành hai ngôi mộ tập thể và lập miếu Linh Từ để thờ cúng hằng năm vào ngày 16.7 âm lịch. Lễ tế này vẫn được duy trì cho đến nay.
( Còn tiếp)