Cuộc tàn sát trên biển
Sự kiện hải quân Trường Sa - 1988 (gọi tắt là CQ-88, tức là "chủ quyền 1988") thực chất là cuộc tàn sát trên biển. Một bên là hải quân Trung Quốc, một bên là những người lính chính nghĩa hải quân Việt Nam. Trước đây, nhiều báo, đài gọi là “hải chiến Trường Sa”, đó là cách gọi không đúng. Bởi, gọi là “hải chiến” thì phải có 2 bên tham chiến, tức là phải có sự chiến đấu giữa hải quân 2 nước,
tương quan về lực lượng, ngang bằng về vũ khí trang bị hoặc ít nhất cũng phải có “tuyên bố xâm lược” theo luật chiến tranh và luật nhân đạo quốc tế. Còn đằng này, những chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đang thực thi pháp luật chủ quyền trên biển, đảo của Việt Nam, thì bất ngờ bị hải quân Trung Quốc đem tàu đến gây hấn và nã đạn, rồi lấn chiếm, đó là “cuộc tàn sát đẫm máu”. 30 năm trôi qua, “cuộc tàn sát” không thể lu mờ trong tâm khảm của người Việt, đặc biệt là những người lính hải quân ở đảo đá Gạc Ma ngày ấy còn sống sót trở về.
Đầu tháng 3/1988, sau khi chiếm giữ trái phép 5 đảo thuộc quần đảo Trường Sa (gồm các đảo: Chữ Thập, Châu Viên, Huy Gơ, Ga Ven và Xu Bi), Trung Quốc lại có ý đồ chiếm Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao nhằm kiểm soát cả khu vực. Để thực hiện ý đồ này, Trung Quốc huy động lực lượng của hai hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa với 9-12 tàu chiến, 2 tàu hộ vệ pháo, 2 tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải LSM, tàu đo đạc và 1 pôngtông lớn để hỗ trợ.
Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Hải quân lệnh triển khai lực lượng bảo vệ giữ chủ quyền. Ngày 12/3/1988, tàu HQ 605 thuộc Lữ đoàn 125 do đồng chí Lê Lệnh Sơn làm Thuyền trưởng được lệnh từ đảo Đá Đông đến đóng giữ đảo Len Đao. Sau 29 giờ hành quân khẩn trương, tàu đến đảo và cắm cờ Tổ quốc, khẳng định chủ quyền của Việt Nam vào lúc 5 giờ, ngày 14/3/1988.
Trước đó, 9 giờ, ngày 13/3/1988, tàu HQ 604 do Đại úy Vũ Phi Trừ làm Thuyền trưởng được lệnh về Gạc Ma; tàu HQ 505 do Thuyền trưởng Vũ Huy Lễ tiến về đảo Cô Lin. Phối hợp 2 tàu này có 2 đội công binh 70 người và 4 tổ chiến đấu 22 người thuộc Lữ đoàn 146. Sau khi 2 tàu thả neo được khoảng 30 phút, tàu hộ vệ, tàu chiến đấu xâm lăng áp sát liên tục đe dọa, uy hiếp.
Lúc 21 giờ, ngày 13/3/1988, Bộ Tư lệnh Hải quân chỉ thị cho các thuyền trưởng chỉ huy bộ đội quyết giữ vững các đảo: Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao, đồng thời khẩn trương thả xuồng, chuyển vật liệu làm nhà lên đảo ngay trong đêm. Tàu HQ 604 cho công binh chuyển vật liệu lên đảo Gạc Ma. Lúc này, có bộ đội cắm cờ trên đảo và triển khai 4 tổ bảo vệ. Thấy vậy, Trung Quốc điều thêm 2 tàu hộ vệ có trang bị pháo 100mm đến hỗ trợ, đe dọa bắt ta phải rời khỏi Gạc Ma. Trước căng thẳng ấy, Ban Chỉ huy tàu HQ 604 họp bàn, nhận định, quân Trung Quốc có thể dùng vũ lực can thiệp và quyết định chỉ huy bộ đội bình tĩnh xử trí, thống nhất thực hiện theo phương án tác chiến đề ra, quyết tâm bảo vệ Gạc Ma.
6 giờ, ngày 14/3/1988, Trung Quốc thả 3 thuyền nhôm và 40 quân đổ bộ lên đảo, tiến về phía cờ ta và định giật lấy. Lập tức, Thiếu úy Trần Văn Phương, hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh cùng đồng đội anh dũng giành lại cờ. Binh lính Trung Quốc dùng lưỡi lê đâm và bắn Nguyễn Văn Lanh bị thương. Thiếu úy Trần Văn Phương xông vào cứu đồng đội đã bị bắn và anh dũng hy sinh.
Nỗi đau mẹ liệt sĩ Gạc Ma
Sau 30 năm kể từ trận chiến Gạc Ma, Đại tá Vũ Huy Lễ - nguyên Thuyền trưởng tàu HQ 505, chưa bao giờ nguôi ngoai nỗi đau. Từ Hải Phòng, giọng ông nghèn nghẹn trong điện thoại: “Khi 64 hài cốt của đồng đội đang nằm dưới đáy biển thì những người như chúng tôi chưa thể thanh thản được. Máu của các liệt sĩ nhuộm mặn sóng biển Đông. Vùng biển, đảo ấy bây giờ là màu xanh, nhưng hòa lẫn trong ấy là máu đào liệt sĩ”.
Ông Lễ kể lại, sau khi tàu HQ 604 chìm, 2 tàu chiến Trung Quốc quay súng sang tấn công tàu HQ 505. Đạn pháo làm toàn bộ mạn phải tàu bị cháy, thủng, phòng truyền thông tin, phía boong bốc cháy dữ dội, một số cán bộ, chiến sĩ bị thương, song anh em vẫn quyết tâm chiến đấu. Lúc này, phía đảo Gạc Ma là cảnh tượng tan hoang ghê gớm. Nhiều mảnh vỡ, đồ đạc của tàu trôi dạt khắp nơi. Thuyền trưởng Lễ lệnh cho 5 cán bộ, chiến sĩ hạ xuồng cứu sinh (loại lớn) sang Gạc Ma tìm kiếm. Đến 12 giờ cùng ngày, xuồng quay về với 44 chiến sĩ Gạc Ma, trong đó có 5 người hy sinh, nhiều người bị thương.
Lúc này tàu HQ 605 bị tàu Trung quốc bắn ở đảo Len Đao (cách Cô Lin 10 hải lý). Mặc dù tàu 605 cũng tìm cách lao lên đảo, nhưng do đảo không thoải như Cô Lin nên tàu chỉ ghé được mũi lên đảo, khi nước rút, tàu bị tụt xuống biển rồi chìm vào lúc 6 giờ, ngày 15/3/1988. Anh em trên tàu này bơi được về đảo Sinh Tồn. Để giữ đảo Cô Lin, thuyền trưởng Lễ quyết định lùi tàu HQ 505 ra xa rồi dùng hết tốc độ lao lên đảo Cô Lin trong đạn xâm lăng cày xới mặt biển. Đó là lúc 8 giờ 45 phút, sáng ngày 14/3/1988.
Tượng đài những liệt sĩ Gạc Ma trong khu tưởng niệm“Những người nằm lại phía chân trời”
Tổ quốc mãi gọi tên
Tháng 7/2017, anh linh của 64 người lính tử trận trước họng súng tàn sát của Hải quân Trung Quốc được rước về khu tưởng niệm “Những người nằm lại phía chân trời” trong bán đảo Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa, nhưng xương cốt của 64 liệt sĩ vẫn lạnh cóng dưới tầng sóng ngoài đảo Gạc Ma suốt 30 năm qua. Theo thông lệ của những người đi biển, mỗi khi tàu hải quân đi qua vùng biển Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao, thường tổ chức lễ viếng và thả hoa tưởng niệm 64 liệt sĩ.
Lịch sử sang trang, sự kiện “CQ-88” lùi dần vào dĩ vãng, song những chứng tích trận tàn sát đẫm máu ngày ấy thì không bao giờ quên lãng. Bởi, nó đi vào lịch sử dân tộc, để mỗi năm, đến ngày 14/3, ký ức đau thương nhưng vô cùng bi tráng lại ùa về trong tiềm thức người Việt.
30 năm qua, những người mẹ liệt sĩ Gạc Ma vẫn khắc khoải chờ xương cốt của các liệt sĩ; những người con chỉ biết mặt cha qua di ảnh thờ; nhiều người vợ thầm lặng hy sinh ở vậy nuôi con,... Nỗi đau không bao giờ kể xiết. Song tất cả đều tự hào, hãnh diện về 64 liệt sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam nằm lại ngoài biển khơi. Các anh hy sinh cho Tổ quốc thanh bình, cho biển, đảo Trường Sa xanh thắm giữa ngàn khơi.
Đất nước mãi gọi tên các anh - những người ngã xuống vì dân tộc. Tổ quốc ghi ơn sự hy sinh kiên cường, anh dũng của 64 liệt sĩ Gạc Ma. Hơn 90 triệu người dân đất Việt ghi ơn, tự hào về các anh - những anh hùng biển cả của thế kỷ XX./.