Là một tổ chức hình thành muộn nhất của Bộ TN&MT song lại là lĩnh vực giải quyết nhiều vấn đề lớn của đất nước liên quan đến vấn đề kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng trên biển. Qua 9 năm hình thành và phát triển, Tổng cục Biển và Hải đảo vừa hình thành và hoàn thiện cơ cấu, tổ chức bộ máy, vừa thực hiện nhiệm vụ quản lý tổng hợp và thống nhất đối với biển và hải đảo ở Việt Nam, các cơ quan quản lý, các tầng lớp nhân dân.
Vượt qua không ít khó khăn, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam đã đặt một “nền móng” ban đầu khá vững chắc với việc triển khai thành lập hệ thống Chi cục Quản lý biển và hải đảo tại 28 tỉnh, thành có biển. Đây là một đội ngũ quản lý cấp cơ sở, giúp việc đắc lực trong việc triển khai các chủ trương, chính sách pháp luật liên quan đến ngành.
Đặc biệt, ngày 25/6/2015 tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo. Luật đã tạo hành lang pháp lý đủ mạnh để triển khai một cách có hiệu quả phương thức quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo dựa trên tiếp cận hệ sinh thái. Đó là, việc hoạch định và tổ chức thực hiện các chính sách, cơ chế, công cụ điều phối liên ngành, liên vùng để bảo đảm tài nguyên biển và hải đảo được khai thác, sử dụng hiệu quả, duy trì chức năng và cấu trúc của các hệ sinh thái biển, hải đảo và vùng bờ nhằm phát triển bền vững, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam trên biển.
Khai thác hợp lý tài nguyên kết hợp với bảo vệ môi trường biển, đảo
Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo cũng đưa ra những quy định cụ thể một số nội dung mang tính đặc thù của biển như: Kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo; ứng phó, khắc phục sự cố tràn dầu, hóa chất độc trên biển; nhận chìm ở biển. Để nhanh chóng đưa Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo vào cuộc sống, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, của Bộ TN&MT, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam đã tập trung phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và các địa phương có biển tổ chức xây dựng và trình cấp có thẩm quyền ban hành 9 văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật ngay trong năm 2016. Luật và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật đã tạo hành lang pháp lý đồng bộ để thực hiện phương thức quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo.
Bên cạnh đó, thực hiện nhiệm vụ quản lý điều tra cơ bản TN&MT biển và hải đảo, Tổng cục đã tham mưu giúp Bộ TN&MT phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương có biển tổ chức triển khai các nhiệm vụ, dự án thuộc “Đề án Tổng thể điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên - môi trường biển đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020” (Đề án 47). Kết quả bước đầu thực hiện Đề án là cơ sở dữ liệu điều tra cơ bản về điều kiện tự nhiên, tài nguyên và môi trường biển Việt Nam có tính đồng bộ, đáng tin cậy đã được xây dựng, phục vụ kịp thời cho công tác quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo, phục vụ cho việc lập quy hoạch, kế hoạch khai thác, sử dụng hợp lý điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, môi trường nhằm phát triển bền vững kinh tế biển, cũng như giữ vững chủ quyền biển, đảo...
Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo ra đời tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc quy định cụ thể về cơ chế, chính sách, chiến lược, kế hoạch hành động… giúp các địa phương ven biển xác định phương hướng, mục tiêu và định hướng sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường biển, đảo và khắc phục tình trạng xung đột trong khai thác, sử dụng tài nguyên biển, đảo. Từ đó, giúp cho công tác quản lý tổng hợp và thống nhất về biển, hải đảo của các địa phương ven biển có nhiều chuyển biến tích cực, giảm thiểu được sự chồng chéo, tranh chấp quyền lợi giữa các bên liên quan trong việc khai thác và sử dụng, góp phần định hướng phát triển kinh tế biển theo Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020.
Triển khai Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, thời gian qua, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam đã tham mưu, giúp Bộ TN&MT tổ chức thực hiện phương thức quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo thông qua các hoạt động xây dựng cơ chế, chính sách pháp luật; quản lý điều tra cơ bản; hợp tác quốc tế và phát triển khoa học, công nghệ; thông tin, tuyên truyền biển và hải đảo…
Với các yếu tố quản lý mang tính chất kỹ thuật, Tổng cục đã tập trung xây dựng Danh mục các điểm có giá trị đặc trưng mực nước triều của vùng ven biển Việt Nam và ban hành Hướng dẫn kỹ thuật xác định đường mực nước triều cao trung bình nhiều năm, đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm vùng ven biển Việt Nam (là cơ sở để tổ chức giao khu vực biển cũng như thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển); xây dựng quy định tiêu chí phân cấp, hướng dẫn phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển và hải đảo; quy định các nội dung chuẩn bị ứng phó, tổ chức ứng phó, khắc phục và giải quyết hậu quả sự cố hóa chất độc trên các vùng biển Việt Nam; quy định về nhận chìm ở biển...
Mặc dù, đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, song công tác quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo vẫn còn những hạn chế, vướng mắc, khó khăn nhất định. Trong đó, dễ dàng nhận thấy vấn đề nhận thức và hành động chưa đầy đủ, quyết liệt; đội ngũ công chức thực hiện nhiệm vụ quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo ở cả Trung ương và địa phương còn thiếu và chưa đủ kinh nghiệm nên chưa đáp ứng được hiệu quả công việc; chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan trong trao đổi thông tin, dữ liệu về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài chính công phục vụ quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo còn thiếu... Đặc biệt, các công cụ quan trọng để triển khai thực hiện phương thức quản lý tổng hợp tài nguyên biển và hải đảo mới đang được xây dựng như Quy hoạch, kế hoạch sử dụng biển; Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ. Đến nay, rất ít địa phương tổ chức triển khai nhiệm vụ thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển trên địa bàn…
Để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo trong thời gian tới, cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ từ hoàn thiện thể chế, kiện toàn thiết chế cho đến đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật… phục vụ quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo. Một trong những giải pháp quan trọng tập trung nguồn lực thiết lập hệ thống công cụ nhằm nâng cao hiệu quả quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo. Đó là sớm hoàn thiện để trình Quốc hội thông qua Quy hoạch sử dụng biển Việt Nam đến năm 2050 và Kế hoạch thực hiện giai đoạn 2017 - 2025 nhằm tạo không gian biển cho các hoạt động khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên biển, phát triển kinh tế biển; hoàn thành việc thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển trên tất cả các địa phương có biển nhằm bảo vệ hệ sinh thái, duy trì giá trị dịch vụ của hệ sinh thái và cảnh quan tự nhiên ở vùng bờ; giảm thiểu sạt lở bờ biển, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; bảo đảm quyền tiếp cận của người dân với biển; thực hiện Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo nhằm đáp ứng yêu cầu khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; thực hiện Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ…
Có thể thấy, những nhiệm vụ trước mắt còn không ít khó khăn cả về nguồn nhân lực và thể chế, chính sách. Song, bằng quyết tâm thực hiện thắng lợi Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025 đó là, xây dựng được cơ quan quản lý tổng hợp và thống nhất về biển có hiệu lực, hiệu quả, mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực về biển, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam đang tích cực tập trung nguồn lực, thực hiện triển khai và xây dựng các văn bản pháp luật về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường biển, nhằm bảo đảm hài hòa trong khai thác, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, ngăn chặn nguy cơ suy giảm nghiêm trọng giá trị các hệ sinh thái do hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên quá mức của con người.