Đánh giá rõ ràng, khách quan tiến trình chuyển đổi số
Phát biểu khai mạc phiên họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh: Chuyển đổi số là chủ trương, định hướng lớn của Đảng và Nhà nước, là công việc phải thường xuyên, liên tục theo dõi, đánh giá, đôn đốc, chỉ đạo sát sao và quyết liệt triển khai. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là phải đẩy mạnh chuyển đổi số một cách nhanh chóng, hiệu quả và thực chất, triển khai các nhiệm vụ toàn diện, đồng bộ, nhưng có trọng tâm, trọng điểm, làm việc nào dứt việc đó.
Nhiệm vụ của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số là rất nặng nề; phải chỉ đạo, tổ chức thực hiện các chủ trương, cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số quốc gia, gắn kết chặt chẽ với cải cách hành chính; xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số và đô thị thông minh; tạo thuận lợi cho việc triển khai cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 tại Việt Nam.
Thủ tướng đề nghị các đại biểu thẳng thắn đánh giá rõ ràng, khách quan, minh chứng bằng số liệu cụ thể về việc thực hiện nhiệm vụ thời gian qua, những nhiệm vụ được phân công theo Kế hoạch hoạt động năm 2022 của Ủy ban và những nhiệm vụ được giao tại Phiên họp lần trước của Uỷ ban, phân tích rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan, nhất là nguyên nhân chủ quan; tinh thần là làm việc thực chất, mang lại lợi ích cho quốc gia, dân tộc, cho nhân dân.
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại phiên họp
Tại cuộc họp, Bộ Thông tin và Truyền thông đã báo cáo về tình hình chuyển đổi số trong 6 tháng đầu năm 2022. Theo đó, Bộ Thông tin và Truyền thông đã phối hợp với các bộ, ngành chỉ đạo phát triển, đánh giá và công bố 50 nền tảng số, trong đó có 18 nền tảng phục vụ Chính phủ số, 16 nền tảng phục vụ kinh tế số và 16 nền tảng phục vụ xã hội số.
63/63 địa phương đã được giao nhiệm vụ triển khai sử dụng tối thiểu 01 nền tảng số; 43/63 địa phương đã công bố lựa chọn nền tảng số triển khai năm 2022 lồng ghép trong kế hoạch chuyển đổi số; 8/63 địa phương đã công bố lựa chọn nền tảng số triển khai năm 2022 bằng một văn bản riêng của UBND tỉnh, thành phố.
Cơ sở dữ liệu quốc gia (CSDL) quốc gia về dân cư được đẩy mạnh triển khai, kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ cung cấp dịch vụ công trực tuyến và các tiện ích cho người dân và doanh nghiệp. CSDL hộ tịch điện tử toàn quốc có khoảng 28 triệu dữ liệu đăng ký khai sinh, trong đó có trên 7 triệu trẻ em được cấp Số định danh cá nhân theo quy định; trên 6 triệu dữ liệu đăng ký kết hôn; trên 4 triệu dữ liệu đăng ký khai tử,…
Đẩy mạnh ứng dụng CNTT để nâng cao hiệu quả quản lý
Phát biểu tại Phiên họp của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số, Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Phương cho biết, thời gian qua, tỉnh Thừa Thiên Huế đã triển khai quyết liệt công tác xây dựng chính quyền điện tử, đô thị thông minh và chương trình chuyển đổi số quốc gia trên toàn địa bàn tỉnh. Sau hơn 03 năm triển khai Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/03/2019 của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019 - 2020, định hướng đến 2025, tỉnh Thừa Thiên Huế đã hoàn thành 100% chỉ tiêu giai đoạn 2019 - 2020 và 70% chỉ tiêu giai đoạn đoạn 2021 - 2025 được quy định tại Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/03/2019 của Chính phủ.
Nhiệm vụ “Triển khai ứng dụng nền tảng bản đồ số” được giao tại Kế hoạch hoạt động năm 2022 của Uỷ ban Quốc gia về chuyển đổi số đến nay đã hoàn thành trước kế hoạch, cụ thể: Cơ sở dữ liệu nền đã được số hóa toàn tỉnh trong các lớp Địa chính, Biên giới, Dân cư và Cơ sở hạ tầng, Giao thông...; Triển khai hơn 14 cơ sở dữ liệu GIS chuyên ngành; Tích hợp hơn 50 quy hoạch lên hệ thống GIS Huế; Tích hợp hơn 11 cơ sở dữ liệu GIS về đề tài nghiên cứu khoa học. Nền tảng Bản đồ số hiện nay đã được tỉnh Thừa Thiên Huế tích hợp trên nền tảng Hue-S để cung cấp các dịch vụ, tiện ích cho người dân và doanh nghiệp.
Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Phương phát biểu tại phiên họp
Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Phương nhấn mạnh, chính nhờ sự vào cuộc và hành động đồng bộ, quyết liệt của cả hệ thống chính trị, vì vậy liên tục trong các năm qua chỉ số xếp hạng của Thừa Thiên Huế ngày càng được cải thiện và luôn nằm trong top đầu về các chỉ số xếp hạng cấp tỉnh. Cụ thể, chỉ số sẵn sàng ứng dụng công nghệ thông tin (ICT index): các năm 2019, 2020, 2021 xếp thứ 2 toàn quốc. Chỉ số chuyển đổi số (DTI) năm 2021 xếp thứ 2 toàn quốc. Chỉ số cải cách hành chính (PAR index): tăng từ vị trí số 13 năm 2019 đến vị trí thứ 4 toàn quốc năm 2021. Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI): tăng từ vị trí số 5 năm 2019 đến vị trí số 1 toàn quốc năm 2021; Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước (SIPAS): tăng từ vị trí số 57 năm 2019 đến vị trí số 17 toàn quốc năm 2021; Chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh (PCI): tăng từ vị trí số 20 năm 2019 đến vị trí số 8 toàn quốc năm 2021.
Đặc biệt, mô hình dịch vụ đô thị thông minh và nền tảng Hue-S có thể nói là niềm tự hào của Thừa Thiên Huế trong quá trình xây dựng chính quyền điện tử và triển khai chuyển đổi số. Theo số liệu giám sát của Bộ Thông tin và Truyền thông, đến nay Hue-S đã có gần 800.000 lượt tải ứng dụng, tương đương 101,3% tổng số dân trên địa bàn tỉnh có sử dụng điện thoại di động thông minh với thời gian sử dụng trung bình 35 phút mỗi người/một ngày. Tính riêng năm 2021, đã có hơn 17.400.000 lượt truy cập. Hue-S cũng đã thu hút hơn 10 Tập đoàn, doanh nghiệp và tổ chức tham gia tích hợp vào Hue-S.
Trong thời gian tới, tỉnh Thừa Thiên Huế sẽ tập trung nguồn lực để đầu tư, nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin, trong đó ưu tiên chuyển đổi số đối với các lĩnh vực có thế mạnh của tỉnh: Y tế, văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ, du lịch và nông nghiệp. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành công việc. Đào tạo, nâng cao nhận thức, kỹ năng cho cán bộ, công chức. Hướng dẫn, phổ cập kỹ năng số cho người dân đặc biệt là thành viên của Tổ Công nghệ số cộng đồng. Đồng thời tích cực phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông cùng các tập đoàn, doanh nghiệp để liên kết, tích hợp các nền tảng số quốc gia đã được công bố nhằm nâng cấp nền tảng Hue-S theo hướng cung cấp toàn diện các dịch vụ số của cơ quan nhà nước cho doanh nghiệp và người dân.