Tìm kiếm
Liên kết website
Chính phủ
Tỉnh ủy, UBND tỉnh
Sở, Ban, Ngành
UBND Huyện, Thị xã, Thành phố
UBND phường, xã, thị trấn
THÔNG CÁO BÁO CHÍ: Về việc ban hành Thông tư về Quy hoạch kho số viễn thông
Ngày cập nhật 08/01/2015

Căn cứ Luật Viễn thông ngày 23 tháng 11 năm 2009, Nghị định số 25/2011/NĐ-CP ngày 06 tháng 4 năm 2011 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Viễn thông, thực hiện Kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật năm 2014, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành Thông tư số 22/2014/TT-BTTTT ngày 22/12/2014 ban hành Quy hoạch kho số viễn thông (sau đây gọi là Quy hoạch mới). Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 3 năm 2015 và thay thế cho Quyết định số 52/2006/QĐ-BBCVT ngày 15 tháng 12 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Bưu chính, Viễn thông ban hành Quy hoạch đánh số điện thoại quốc gia (sau đây gọi là Quy hoạch cũ) và Quyết định số 53/2006/QĐ-BBCVT ngày 15 tháng 12 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Bưu chính, Viễn thông về việc phân bổ và sử dụng các loại mã, số viễn thông.

Thông tư số 22/2014/TT-BTTTT nêu trên được xây dựng và ban hành với mục tiêu: Quy hoạch được sử dụng lâu dài; quy hoạch hợp lý đảm bảo việc sử dụng kho số tiết kiệm, hiệu quả, thúc đẩy thị trường viễn thông phát triển bền vững; quy hoạch phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và thông lệ quốc tế, các tổ chức quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết; đảm bảo công bằng, minh mạch đối với doanh nghiệp và người sử dụng dịch vụ; hạn chế tối đa ảnh hưởng không tích cực có thể phát sinh đối với doanh nghiệp và người sử dụng dịch vụ. Để đảm bảo các mục tiêu đó, Quy hoạch mới so với Quy hoạch cũ có một số điểm chính được thay đổi như sau:

1. Quy hoạch lại số đầu mã dùng cho mã vùng và mã mạng
 
Theo thống kê, trong những năm vừa qua số lượng thuê bao điện thoại di động ngày càng tăng, ngược lại số lượng thuê bao điện thoại cố định ngày càng giảm. Xu hướng suy giảm số thuê bao điện thoại cố định có thể vẫn diễn ra trong những năm tới. Hiện tại, tổng số thuê bao điện thoại cố định và di động khoảng 130 triệu, trong đó số lượng thuê bao điện thoại cố định khoảng gần 7 triệu (chiếm khoảng 5,4% tổng số thuê bao), số lượng thuê bao điện thoại di động khoảng hơn 120 triệu (chiếm khoảng 94,6% tổng số thuê bao). Tổng số đầu mã tối đa có thể quy hoạch làm mã vùng và mã mạng là 9. Theo quy hoạch cũ thì số đầu mã làm mã vùng cho mạng cố định là 7 và làm mã mạng cho mạng di động là 2. Điều này bộc lộ sự thiếu hiệu quả trong quy hoạch, sử dụng kho số giữa mạng cố định và mạng di động. Về lâu dài, với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường viễn thông di động sẽ dẫn đến thiếu số cho di động trong khi thừa số cho cố định.

Quy hoạch mới đã giải quyết bất cập này bằng việc quy hoạch 1 đầu mã làm mã vùng; 8 đầu mã làm mã mạng, trong đó 6 đầu mã làm mã mạng cho mạng di động, 1 đầu mã làm mã mạng sử dụng cho thuê bao di động là thiết bị và 1 đầu mã làm mã mạng cho các mạng viễn thông khác như mạng viễn thông cố định vệ tinh, mạng viễn thông dùng riêng, mạng điện thoại Internet và dự phòng.

2. Quy hoạch lại mã vùng

Theo Quy hoạch cũ và thực tế đang sử dụng, độ dài mã vùng là 1, 2 hoặc 3 chữ số, độ dài số thuê bao là 7 hoặc 8 chữ số. Cụ thể là: Về độ dài mã vùng, 2 thành phố (thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh) có độ dài 1 chữ số; 37 tỉnh/thành phố có độ dài 2 chữ số và 24 tỉnh/thành phố có độ dài 3 chữ số. Về độ dài số thuê bao điện thoại cố định, 2 thành phố (thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh) có độ dài 8 chữ số; 61 tỉnh/thành phố có độ dài 7 chữ số. Điều này dẫn đến độ dài quay số khi gọi đường dài trong nước hoặc gọi từ mạng di động đến thuê bao điện thoại cố định là không thống nhất, tùy theo tỉnh/thành phố mà độ dài quay số là 10 hoặc 11 chữ số bao gồm cả số mào đầu quốc gia ‘0’. Với việc không có sự thống nhất trong độ dài quay số dẫn đến dễ gây nhầm lẫn và khó nhớ đối với người sử dụng dịch vụ.

Quy hoạch mới đã giải quyết bất cập này bằng việc quy hoạch độ dài mã vùng là 2 hoặc 3 chữ số, độ dài số thuê bao điện thoại cố định giữ nguyên là 7 hoặc 8 chữ số phụ thuộc vào vùng đánh số cụ thể. Cụ thể là: Về độ dài mã vùng, 2 thành phố (thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh) có độ dài 2 chữ số; 61 tỉnh/thành phố có độ dài 3 chữ số. Về độ dài số thuê bao điện thoại cố định thì vẫn giữ nguyên như hiện tại. Như vậy, độ dài quay số khi gọi đường dài trong nước hoặc gọi từ mạng di động đến thuê bao điện thoại cố định là thống nhất trên toàn quốc, đều là 11 chữ số bao gồm cả số mào đầu quốc gia ‘0’.

3. Quy hoạch lại mã mạng di động

Theo Quy hoạch cũ và thực tế đang sử dụng, độ dài mã mạng di động là 2 (đầu 9x) và 3 (đầu 1xx) chữ số, độ dài số thuê bao điện thoại di động là 7 chữ số. Điều này dẫn đến độ dài quay số khi gọi đến thuê bao điện thoại di động là không thống nhất, tùy theo mã mạng mà độ dài quay số là 10 hoặc 11 chữ số bao gồm cả số mào đầu quốc gia ‘0’. Với việc không có sự thống nhất trong độ dài quay số dẫn đến dễ gây nhầm lẫn và khó nhớ đối với người sử dụng dịch vụ, không đảm bảo công bằng trong quay số.

Quy hoạch mới đã giải quyết bất cập này bằng việc quy hoạch độ dài mã mạng di động là 2 chữ số, độ dài số thuê bao điện thoại di động vẫn giữ nguyên như hiện tại là 7 chữ số. Như vậy, độ dài quay số khi gọi đến thuê bao điện thoại di động là thống nhất đối với tất cả các doanh nghiệp viễn thông và người sử dụng dịch vụ, đều là 10 chữ số bao gồm cả số mào đầu quốc gia ‘0’.

4. Bổ sung các mã, số sử dụng cho các dịch vụ mới

Với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực viễn thông, nhiều dịch vụ viễn thông đã, đang và sẽ tiếp tục phát triển trong những năm tới. Để đảm bảo Quy hoạch mới đáp ứng được các yêu cầu đó, Quy hoạch mới đã bổ sung các mã số sử dụng cho dịch vụ mới cũng như dự phòng cho các dịch vụ được phát triển trong tương lai. Một số mã, số mới được đưa vào như sau: Số dịch vụ tin nhắn ngắn; mã mạng và số thuê bao điện thoại Internet, mã mạng và số thuê bao mạng viễn thông di động mặt đất sử dụng cho thuê bao viễn thông là thiết bị, số dịch vụ giải đáp thông tin…

5. Loại bỏ các mã, số cho các dịch vụ đến nay không còn sử dụng

Các mã, số được quy hoạch trước đây như mã dịch vụ nhắn tin (radio paging), mã dịch vụ Internet (truy nhập Internet tốc độ thấp qua Modem theo hình thức dial-up)… đến nay không còn sử dụng nữa thì được loại bỏ ra khỏi quy hoạch để giải phóng các mã, số dùng cho các dịch vụ có nhu cầu sử dụng cao hoặc dịch vụ mới; đảm bảo việc sử dụng kho số tiết kiệm, hiệu quả.

Tóm lại, Quy hoạch mới được ban hành trên cơ sở nghiên cứu, xem xét một cách kỹ lưỡng thông lệ quốc tế và tình hình thực tế của Việt Nam nhằm một mặt đảm bảo quy hoạch được sử dụng lâu dài, sử dụng kho số tiết kiệm, hiệu quả, công bằng, minh bạch, thúc đẩy thị trường viễn thông phát triển bền vững; mặt khác phải hạn chế tối đa ảnh hưởng không tích cực có thể phát sinh đối với doanh nghiệp và người sử dụng dịch vụ, hạn chế tối đa việc sử dụng các mã, số không đúng mục đích làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Điều đó được thể hiện trên một số nét chính của quy hoạch như sau:

- Quy hoạch đảm bảo đủ mã, số cho các dịch vụ đang được sử dụng cũng như dự phòng cho các dịch vụ phát triển trong tương lai;

- Quy hoạch số lượng các mã, số dùng cho từng dịch vụ một cách hợp lý, thị trường nào có nhu cầu nhiều thì được dành nhiều tài nguyên và ngược lại, đảm bảo tài nguyên kho số được sử dụng lâu dài, tiết kiệm, hiệu quả;

- Quy hoạch độ dài quay số (bao gồm cả mã vùng hoặc mã mạng và số mào đầu quốc gia) đối với mạng cố định, mạng di động được thống nhất; đảm bảo công bằng cho doanh nghiệp và người sử dụng dịch vụ hiện tại cũng như doanh nghiệp và người sử dụng dịch vụ tham gia vào thị trường trong tương lai; 

- Hạn chế tối đa ảnh hưởng không tích cực có thể phát sinh đối với doanh nghiệp và người sử dụng dịch vụ, cụ thể là tất cả các số thuê bao điện thoại cố định và di động vẫn giữ nguyên không thay đổi;

- Hạn chế tối đa việc sử dụng các mã, số không hiệu quả, không đúng mục đích làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội: Theo thống kê thời gian vừa qua, hiệu quả sử dụng đối với mã mạng di động độ dài 3 chữ số (đầu 1xx) thấp hơn khá nhiều so với mã mạng di động độ dài 2 chữ số (đầu 9x), tỷ lệ số thuê bao điện thoại dùng mã mạng 1xx rời mạng khá cao; đa số các SIM rác, tin nhắn rác… phát sinh từ mã mạng 1xx. Vì vậy, việc chuyển mã mạng 1xx về mã mạng mới có độ dài 2 chữ số vừa tạo công bằng về độ dài quay số cho người sử dụng dịch vụ vừa góp phần hạn chế tỷ lệ thuê bao rời mạng, góp phần hạn chế SIM rác, tin nhắn rác…

Ngoài ra, để việc triển khai thực hiện Quy hoạch mới được tốt nhất, Bộ Thông tin và Truyền thông đã giao Cục Viễn thông: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Quy hoạch kho số viễn thông trình Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông phê duyệt và tổ chức triển khai thực hiện; chỉ đạo, hướng dẫn các doanh nghiệp viễn thông triển khai thực hiện Quy hoạch kho số viễn thông và kế hoạch triển khai thực hiện Quy hoạch kho số viễn thông sau khi được phê duyệt./.
theo mic.gov.vn
Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Tổng truy cập 11.335.909
Hiện tại 8.032 khách