* Quan niệm và thực tiễn việc đào tạo, tuyển dụng nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam
Những năm gần đây nhiều địa phương đã ban hành chính sách thu hút nhân lực chất lượng cao, trong đó, các nhà lãnh đạo cũng thể hiện rõ quan điểm về đối tượng thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao.
Theo các nhà lãnh đạo thành phố Đà Nẵng, nhân lực chất lượng cao bao gồm những người có trình độ học vấn, trình độ chuyên môn cao. Với quan điểm này, các nhà lãnh đạo thành phố Đà Nẵng đã xác định đối tượng thu hút nhân lực chất lượng cao bao gồm: Học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông loại giỏi, xuất sắc, có quá trình rèn luyện, học tập tốt và trúng tuyển đại học nguyện vọng 1 tại các cơ sở đào tạo công lập uy tín trong cả nước theo những ngành, nghề mà thành phố có nhu cầu; những người có học hàm, học vị, sinh viên tốt nghiệp đại học loại khá, giỏi, xuất sắc theo những ngành nghề mà thành phố có nhu cầu sử dụng.
Còn các nhà lãnh đạo tỉnh Bình Dương xác định đối tượng thu hút nhân lực chất lượng cao là những người có học hàm, học vị, có năng lực đích thực, tuổi đời không quá 50, có đủ sức khỏe về tỉnh công tác, bao gồm giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ, thạc sỹ.
Đối với các nhà lãnh đạo tỉnh Quảng Bình, đối tượng thu hút nhân lực chất lượng cao của tỉnh là giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ, thạc sỹ, bác sỹ nội trú, huấn luyện viên thể thao giỏi, xuất sắc hệ chính quy các trường đại học công lập trong cả nước...
Như vậy có thể nhận thấy điểm chung trong các quan điểm của các nhà lãnh đạo địa phương nêu trên khi bàn về vấn đề nhân lực chất lượng cao là: Có trình độ cao cả về trình độ học vấn và trình độ chuyên môn cao. Bên cạnh đó, có thể thấy, quan điểm về nhân lực chất lượng cao của các nhà lãnh đạo Đà Nẵng cũng rất hiện đại khi xác định đối tượng chưa qua đào tạo chuyên môn nhưng có triển vọng phát triển nghề nghiệp (học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông loại giỏi, xuất sắc) và những người đã qua đào tạo chuyên môn với năng lực thực hành nghề nghiệp tốt. Đây cũng là vấn đề mà các địa phương khác cũng nên xem xét khi xây dựng tiêu chuẩn về nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự phát triển của địa phương mình.
Thế nhưng, việc xác định tiêu chuẩn tuyển dụng nhân lực chất lượng cao của các địa phương chủ yếu mang tính hình thức (chỉ dựa trên tiêu chuẩn cứng là văn bằng, chứng chỉ), chưa nhấn mạnh đến yếu tố kết quả công việc của chủ thể trong quá trình làm việc; chưa nhấn mạnh đến tiêu chuẩn mềm như: sự thích ứng nhanh với những thay đổi của môi trường làm việc trong bối cảnh môi trường xã hội thay đổi nhanh chóng như hiện nay; tinh thần thái độ làm việc, ứng xử, trong khi đây là một trong những vấn đề được quan tâm nhất đối với các nhà quản lý trong các tổ chức.
Từ thực tiễn trên, có thể hiểu khái quát: Nhân lực chất lượng cao là một bộ phận của nguồn nhân lực xã hội, bao gồm những người có sức khỏe, có trình độ nhận thức, có hoặc sẽ có kỹ năng thực hành nghề nghiệp cao thể hiện thông qua kết quả thực hiện công việc, có khả năng sáng tạo và thích ứng nhanh với những thay đổi của môi trường công việc. Tuy nhiên, khi đặt trong môi trường hành chính nhà nước, việc xác định nguồn nhân lực chất lượng cao trong các cơ quan hành chính nhà nước, ngoài những đặc điểm mang tính dấu hiệu nhận biết trên, còn phải dựa vào đặc điểm nền hành chính của mỗi quốc gia cũng như xu hướng của nền hành chính thế giới.
Nhân lực trong cơ quan hành chính nhà nước là đội ngũ cán bộ, công chức được hình thành từ tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc bầu cử theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức với những tiêu chuẩn cụ thể về trình độ chuyên môn, sức khỏe, phẩm chất chính trị... Do đó, việc tuyển dụng nhân lực chất lượng cao trong các cơ quan hành chính nhà nước suy cho cùng cũng là nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.
Như đã phân tích trên, hiện tại Nhà nước chưa có chính sách chung về tuyển dụng nhân lực chất lượng cao cho bộ máy hành chính nhà nước, mà việc tuyển dụng công chức trong cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện theo Luật cán bộ, công chức và các văn bản hướng dẫn thi hành với những tiêu chuẩn chung, cụ thể như: Có một quốc tịch Việt Nam, đủ 18 tuổi trở lên, có lý lịch rõ ràng, đủ sức khỏe để thực hiện nhiệm vụ. Tiêu chuẩn này gắn với yếu tố chính trị, rằng cá nhân được tuyện dụng công chức phải là người chính quốc, là người trưởng thành, có nhân thân rõ ràng để thuận lợi cho công tác quản lý. Tiêu chuẩn này mang nét chung, được hầu hết các quốc gia trên thế giới áp dụng trong quá trình tuyển dụng công chức cho bộ máy nhà nước.
Có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt. Tiêu chuẩn này được xác định một cách chung chung. Thực chất, đây là tiêu chuẩn về đạo đức công vụ, nhưng thế nào là phẩm chất chính trị, đạo đức tốt lại là vấn đề cần phải được cụ thể hóa. Trên thực tế, hầu hết các cơ quan khi thông báo tuyển dụng công chức cũng chỉ dừng lại ở việc đưa ra tiêu chuẩn chung về đạo đức công vụ nêu trên.
Có văn bằng, chứng chỉ phù hợp. Đây là tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, theo đó, các cơ quan có thẩm quyền tuyển dụng công chức căn cứ vào vị trí công việc sẽ đưa ra điều kiện cụ thể về văn bằng, chứng chỉ cho phù hợp. Cách quy định này mang nặng yếu tố hình thức và rất dễ bị lạm dụng. Trên thực tế, trong bối cảnh xã hội hiện đại, để có được văn bằng, chứng chỉ đào tạo không quá khó, nhưng yếu tố nền tảng nhận thức xã hội trước khi cá nhân bước vào quá trình đào tạo cũng ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. Đồng thời, kỹ năng thực hành nghề nghiệp của cá nhân sau quá trình đào tạo là vấn đề quan trọng bậc nhất. Những vấn đề này lại không được cụ thể hóa thành những tiêu chuẩn trong các văn bản pháp luật về cán bộ, công chức.
* Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tỉnh Thừa Thiên Huế
Xác định rõ tầm quan trọng của guồn nhân lực chất lượng cao trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước cũng như phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà, những năm gần đây lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế đã ban hành nhiều chính sách, chương trình đào tạo và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao. Đặc biệt, việcUBND tỉnh ban hành kế hoạch số 195/KH-UBND ngày 23 tháng 12 năm 2016 về việc phát triển nguồn nhân lực tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2016-2020 đã thể hiện rõ quan điểm cũng như sự quan tâm của lãnh đạo tỉnh đối với việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực tỉnh nhà.
Kế hoạch đặt ra mục tiêu tổng quát là nhằm thực hiện có hiệu quả Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Thừa Thiên Huế, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh trong giai đoạn 2016-2020, chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động theo hướng tiến bộ, CNH, HĐH. đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, với mục tiêu phấn đấu xây dựng Thừa Thiên Huế thành thành phố trực thuộc Trung ương theo hướng "di sản, văn hóa, sinh thái, cảnh quan, thân thiện với môi trường"; đến năm 2020, xứng tầm là một trong những trung tâm kinh tế, văn hoá du lịch đặc sắc, trung tâm khoa học - công nghệ, trung tâm y tế chuyên sâu, trung tâm giáo dục đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực chất lượng cao của cả nước và khu vực.
Các ngành được ưu tiên phát triển nguồn nhân lực bao gồm: Lĩnh vực dịch vụ ưu tiên phát triển: du lịch, tài chính, ngân hàng, giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa. Lĩnh vực công nghiệp ưu tiên phát triển: công nghiệp chế biến, vật liệu xây dựng, dệt may. Lĩnh vực công nghệ cao ưu tiên phát triển nhân lực các ngành: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và công nghệ tự động hóa. Lĩnh vực nông nghiệp ưu tiên phát triển nhân lực các ngành: nuôi trồng thủy sản, kinh tế biển, trồng trọt và chăn nuôi chất lượng cao, phục vụ du lịch và xuất khẩu.
Riêng đối với Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, Kế hoạch đã đề ra mục tiêu đến năm 2020, tổng số công chức, viên chức trên địa bàn khoảng 28.493 người, trong đó số công chức, viên chức có trình độ đại học và trên đại học chiếm khoảng 80%.
Để đạt được mục tiêu đó thì tỷ lệ công chức, viên chức cần bồi dưỡng chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ thời kỳ 2016-2020 cần bồi dưỡng, đào tạo cho khoảng 15%/năm tổng số công chức, viên chức. Bên cạnh đó, cần tăng cường liên kết hợp tác với các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước, kết hợp đào tạo dài hạn tập trung với các loại hình đào tạo khác phù hợp với yêu cầu sử dụng, chức danh công tác và cơ cấu ngành nghề theo hướng chuyên sâu. Ưu tiên đào tạo sau đại học, tổ chức các lớp bồi dưỡng cập nhật kiến thức nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng thực thi nhiệm vụ, công vụ, kỹ năng giao tiếp bằng ngoại ngữ cho đội ngũ công chức. Tăng cường mở các lớp bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo, điều hành và phối hợp cho các cán bộ quản lý sau khi bổ nhiệm.
Tại phần giải pháp thực hiện, kế hoạch cũng chú trọng vào giải pháp Đổi mới quản lý Nhà nước về phát triển nhân lực bao gồm các nội dung:
- Thống nhất về quy hoạch phát triển nhân lực trên địa bàn: đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý theo hướng hiện đại, hiệu quả.
- Thành lập bộ phận thu thập thông tin, cơ sở dữ liệu về cung cầu nhân lực tại Trung tâm Công nghệ thông tin thuộc Sở Thông tin và Truyền thông; nghiên cứu và ứng dụng các chính sách, cơ chế đào tạo có liên quan đến việc phát triển nhân lực của địa phương. Gắn kết công tác quản lý, dự báo, cân đối nhu cầu đào tạo nhân lực và hỗ trợ việc làm cho lao động sau đào tạo giữa các ngành, địa phương, cơ sở đào tạo và các tổ chức kinh tế.
- Các ngành của Tỉnh và UBND các huyện, thị xã, thành phố có trách nhiệm xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2016-2020 trong phạm vi, lĩnh vực quản lý và báo cáo thường xuyên hàng năm về Sở Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp, đánh giá.
Tổng số vốn dự kiến đầu tư cho phát triển nhân lực giai đoạn 2016-2020 là 23.000 tỷ đồng.
Trong thời đại của sự phát triển khoa học và công nghệ, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phải trở thành một chiến lược quan trọng trong quá trình phát triển. Công tác giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phải gắn bó hữu cơ với chính sách sử dụng và đãi ngộ có như vậy mới thực sự phát huy hết khả năng cũng như tâm huyết của người lao động trong công cuộc xây dựng và phát triển quê hương, đất nước.