Xin đăng tải bài viết của Phó Cục trưởng, Cục Kiểm soát thủ tục hành chính, Bộ Tư pháp Nguyễn Văn Lâm về vấn đề này.
Thứ nhất, phải khẳng định, đây không phải là một chủ trương mới mà là một sự kế thừa hay hiểu một cách khác là sự triển khai thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước. Bên cạnh Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16.5.2016 của Chính phủ thì chủ trương gắn kết, đẩy mạnh cải cách hành chính (CCHC), xây dựng chính phủ điện tử, kiểm soát thủ tục hành chính (KSTTHC) đã được Đảng, QH, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo tại nhiều nghị quyết, văn bản khác nhau. Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ XII và Nghị quyết số 142/2016/QH13 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2016 - 2020 đều xác định phải tập trung cải cách TTHC, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước và thực hiện chính phủ điện tử là một trong những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và bảo đảm quyền tự do, dân chủ của người dân; Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14.10.2015 của Chính phủ về chính phủ điện tử xác định một trong năm nhiệm vụ cụ thể là “Ứng dụng công nghệ thông tin gắn kết chặt chẽ với công cuộc cải cách hành chính và các nhiệm vụ, giải pháp về nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện môi trường kinh doanh”; Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 4.2.2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016 - 2020 cũng xác định “Kết hợp chặt chẽ với các nội dung triển khai CCHC để ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước có tác dụng thực sự thúc đẩy CCHC. Ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước nhằm tăng tốc độ xử lý công việc, giảm chi phí hoạt động”.
Thứ hai, về thực tiễn, những hạn chế, tồn tại của công tác CCHC, xây dựng chính phủ điện tử thời gian qua do nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do tổ chức bộ máy chỉ đạo, điều hành còn phân tán, chồng chéo, thiếu gắn kết, tập trung, thống nhất, không phù hợp với đặc thù của công tác này.
CCHC với bản chất là cắt giảm, hạn chế lợi ích cục bộ nên đương nhiên phải gắn liền trực tiếp với vai trò của người đứng đầu Chính phủ thì mới đủ khả năng tổ chức thực hiện. Thành công của Đề án 30 giai đoạn 2007 - 2010 đã chứng minh rõ điều này , nhưng sau thành công đó, chúng ta đã sai lầm khi đi vào triển khai lại phân công, phân nhiệm theo phương pháp tản quyền, xa rời sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ, làm cho công tác này không phát huy được kết quả vốn rất tích cực trước đó. Theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 8.11.2011 của Chính phủ, CCHC có 6 nhiệm vụ chủ yếu với các nội dung và mục tiêu đầy tham vọng, nhưng được phân công cho các bộ, cơ quan khác nhau chủ trì, thiếu sự phối hợp, gắn kết đồng bộ ở tầm vĩ mô, không có một đầu mối thống nhất, không có một trung tâm đủ mạnh để người đứng đầu Chính phủ có công cụ thực hiện ý chí cải cách. Thay đổi về thể chế, thủ tục sẽ kéo theo sự thay đổi về tổ chức bộ máy, quy trình ISO, chi tiêu tài chính, cán bộ công chức,… vì đều có mục tiêu cuối cùng là thay đổi phương thức hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước. Tương tự, việc thực hiện chính phủ điện tử khó thành công nếu không đồng thời với việc chuẩn hóa, công khai, minh bạch hóa TTHC, tạo điều kiện thuận lợi và văn minh nhất cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận, giải quyết TTHC. Sự thiếu hợp lý trong tổ chức thực hiện đã làm cho 5 năm qua, cải cách hành chính, xây dựng chính phủ điện tử không có bước tiến nào đáng kể. Việc phân công tản mạn như vậy chỉ làm thỏa mãn thói quen lấn sân, giành quyền giữa các cơ quan trong bộ máy, vô hình chung làm vô hiệu hóa việc triển khai Nghị quyết. Kết quả đạt được của Nghị quyết 30c/NQ-CP là rất hạn chế.Từ thực tiễn đó, chúng tôi khẳng định CCHC, xây dựng chính phủ điện tử, KSTTHC là nhiệm vụ thống nhất, liền mạch, mang tính chất liên ngành, đụng chạm đến lợi ích của từng ngành, từng địa phương, lực cản là sức ỳ, bản tính cục bộ muôn thuở của các cơ quan trong bộ máy hành pháp nên chỉ có thể thực hiện hiệu quả khi được tập trung gắn kết, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ. Bài học từ các công cuộc cải cách hành chính rất thành công của Chính phủ Anh thời Thủ tướng Margaret Hilda Thatcher những năm 80, Chính phủ Nhật Bản thời Thủ tướng Koizumi Junichirō và gần đây nhất là mô hình xây dựng chính phủ điện tử của Chính phủ Pháp,… cũng chính là như vậy.
Thứ ba, xét theo các yếu tố tác động đến hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính thì năng lực, chất lượng của nền hành chính và sự ủng hộ của nhân dân là hai trong ba nhân tố quyết định. Trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay, cải cách TTHC, KSTTHC với những nội dung công việc được quy định tại Nghị định số 63/2010/NĐ-CP và Nghị định số 48/2013/NĐ-CP phải được xác định là trọng tâm, đột phá. Quan hệ hành chính giữa nhà nước với công dân chủ yếu thể hiện qua hệ thống TTHC do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện. Chất lượng quy định và thực hiện TTHC có ảnh hưởng lớn, trực tiếp đến đời sống hàng ngày của người dân và hoạt động đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp; là sự thể hiện một cách rõ nét, tập trung nhất bộ mặt của chính quyền và sự tiến bộ, văn minh, dân chủ của chính quyền và xã hội. Lực cản của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước cũng như sự búc xúc của người dân cũng chính là do hệ thống TTHC quá đồ sộ, rắc rối, phiền hà, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ, công chức vốn rất đông đảo phát sinh thói quen quan liêu, nhũng lạm. Trong khi, việc thực hiện các nội dung cải cách khác cần có thời gian, đòi hỏi nguồn lực lớn thì cải cách TTHC, KSTTHC đã hội đủ điều kiện để thực hiện ngay. Thông qua CCHC, chúng ta có thể xác định căn bản các công việc của cơ quan nhà nước với người dân, doanh nghiệp; qua đó chúng ta có thể xây dựng bộ máy phù hợp và từ đó có thể lựa chọn đội ngũ cán bộ, công chức hợp lý, đáp ứng được yêu cầu công việc. Như vậy, có thể coi CCTTHC là tiền để để thực hiện các nội dung cải cách khác như: cải cách bộ máy; nâng cao chất lượng thể chế; nâng cao trình độ, thay đổi thói quen, cách làm, nếp nghĩ của cán bộ, công chức; chuyển từ tác phong “quan liêu hành chính, thụ động” sang tác phong “phục vụ, kiến tạo”…
Bên cạnh đó, xây dựng Chính phủ điện tử gắn trực tiếp với công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ; là cầu nối gắn kết giữa Chính phủ với người dân, doanh nghiệp. Xây dựng chính phủ điện tử giúp đổi mới hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, đưa Chính phủ tới gần dân, minh bạch hóa hoạt động của Chính phủ, giúp Chính phủ hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn . Tuy nhiên, việc xây dựng chính phủ điện tử ở nước ta chưa đạt được kết quả như mong muốn, trong đó có nguyên nhân do chưa tìm được tiếng nói chung giữa ý chí của người đứng đầu Chính phủ với các cán bộ, công chức, viên chức dưới quyền; giữa người làm cải cách và các nhà công nghệ; giữa thế mạnh của việc ứng dụng công nghệ với tính minh bạch của TTHC. Thực tế, muốn xây dựng chính phủ điện tử thành công thì phải có “đề bài” cụ thể, rõ ràng trên nền tảng các nội dung cải cách (quy trình, thủ tục được chuẩn hóa; đổi mới phương thức giải quyết,…); đồng thời, chính phủ điện tử phát triển chính là hệ quả của cải cách và trở lại có vai trò thúc đẩy cải cách. Đây chính là mối quan hệ gắn kết có tính biện chứng, đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ. Ngoài ra, quá trình xây dựng chính phủ điện tử hiện nay cũng cho thấy chưa có sự đồng bộ giữa việc triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin và việc ban hành các văn bản pháp lý (thể chế) quy định về trách nhiệm sử dụng, khai thác, quản lý các chương trình ứng dụng công nghệ thông tin; thiếu quy hoạch, điều phối tổng thể để giảm thiểu sự lãng phí trong quá trình ứng dụng công nghệ thông tin của các Bộ, ngành, địa phương.
Từ sự phân tích trên có thể khẳng định, yêu cầu của Chính phủ trong việc bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa cải cách hành chính với xây dựng chính phủ điện tử và KSTTHC theo hướng thống nhất một đầu mối đặt tại Văn phòng Chính phủ, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ tại Nghị quyết số 35/NQ-CP là hoàn toàn đúng đắn, cần thiết, phù hợp với thẩm quyền của Chính phủ , cũng như chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng Chính phủ tại Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015. Việc thực hiện không chỉ giúp khắc phục những tồn tại, hạn chế trên, mà còn giúp tinh gọn, giảm tổ chức bộ máy; giải quyết chồng chéo trong theo dõi, tham mưu, tổ chức, kiểm tra, đôn đốc thực hiện; giảm gánh nặng về chế độ thông tin báo cáo và quan trọng hơn là nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành CCHC, xây dựng chính phủ điện tử, KSTTHC, đáp ứng yêu cầu quản lý đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Nguyễn Văn Lâm