Huế còn là thủ đô của Phật giáo xứ Đàng Trong, có nhiều phụ nữ xuất gia, trưởng thành thành nhiều vị ni sư mà hình ảnh của họ đã ghi đậm nét trong văn hóa Huế - một bộ phận quan trọng của văn hóa Việt Nam. Những tầng lớp phụ nữ riêng của Huế này được xem là tầng lớp quý tộc - thành phần tạo nên nếp sống văn hóa tiêu biểu của Huế xưa cũng như nay.
Đề cập đến hình ảnh người phụ nữ Huế người ta nghĩ ngay đến một người đẹp. Người đẹp ấy đã là đề tài cho biết bao thi ca, âm nhạc, hội họa: Từ cô Tôn nữ trong khuê các cho đến cô nữ sinh trường Đồng Khánh Huế với đôi tà áo mỏng nhẹ bước qua cầu Trường Tiền, cô gái Phú Cam ngồi đan nón bài thơ, cô gái chèo đò trên sông Hương… Trong kho tàng âm nhạc Huế có biết bao bài ngợi ca vẻ đẹp của người con gái Huế. Tranh của Tôn Thất Đào, tranh của Nguyễn Khoa Toàn, tranh của Phạm Đăng Trí, ảnh của hiệu ảnh Tăng Vinh, Nguyễn Khoa Lợi, Tôn Thất Dung… Thơ của Hàn Mặc Tử, Nam Trân (Huế đẹp và Thơ)...
Sách Đại Nam Liệt truyện viết: Bà Từ Dũ (1810-1901) tên thật là Phạm Thị Hằng, trưởng nữ của công thần nhà Nguyễn - Phạm Đăng Hưng, Ngay từ thuở nhỏ, bà đã nổi tiếng thông minh, xinh đẹp, hiếu thuận, ham đọc sách. Năm 14 tuổi, bà được tiến Cung và dần dần được thăng lên đến tột đỉnh danh vọng “Đệ nhất giai phi” của vua Thiệu Trị. Bà là thân mẫu của Hồng Nhậm. Sau ngày vua Thiệu Trị băng hà (1847), Hồng Nhậm lên nối ngôi lấy niên hiệu là Tự Đức, bà trở thành Hoàng Thái hậu, vừa làm mẹ và cũng vừa làm thầy của vua Tự Đức. Bằng những việc nhỏ hằng ngày bà dạy cho vua lòng hiếu thảo, đức thương dân, biết lắng nghe lời khuyên bảo của các lương thần, sống tiết kiệm... đặc biệt tình cảm đạo lý Việt Nam. Đức hạnh của bà đã có tác động lớn đối với 36 năm trị vì của vua Tự Đức (1847-1883).
Sách Đại Nam Nhất Thống chí, bà Nguyễn Thị Thuần, người Quảng Điền, 17 tuổi phối hôn với Sinh đồ Hoàng Đạo ở làng Xuân Tùy. Bà là con gái nhà giàu, chăm lo gia nghiệp, cung phụng người chồng, khuyên chồng đi học phương xa để thành chí nguyện. Sau Hoàng Đạo đậu luôn 2 khoa Tú-tài. Hai ông bà sinh được hai người con trai là Hoàng Liên và Hoàng Thông. Khi ông Đạo mất, bà mới 25 tuổi ở góa thủ tiết. Hai con còn nhỏ, bà lo phơi sách của chồng để lại đợi cho con lớn học tập. Người ta gọi bà là nghiêm mẫu. Con bà là Hoàng Liên, Hoàng Thông đều đậu Cử-nhân, Ông Hoàng Liên sau theo vua Hàm Nghi và mất. Ông Hoàng Thông theo vua không kịp, về dạy học ở trường Quốc Học. Và, Hoàng Thông chính là người đã dạy chữ Hán cho Nguyễn Sinh Cung (tức Bác Hồ sau này) và tổ chức cho Nguyễn Sinh Cung tham gia hoạt động yêu nước với thầy. Ông Hoàng Thông là ông nội của cô Hoàng Thị Kim Cúc - người được Hàn Mặc Tử rất yêu, cô giáo dạy nữ công gia chánh tiêu biểu của trường Đồng Khánh cũ ở Huế. Bà Nguyễn Thị Thuần là bà cô của nhà thơ Tố Hữu sau này.
Người phụ nữ Huế với hình ảnh “nội tướng” tuyệt vời đã đành, khi ra xã hội, trong tinh thần yêu nước thương nòi, họ cũng kiên trinh bất khuất không kém gì các đấng mày râu. Đó là trường hợp bà Lê Thị Đàn, người làng Thế Lại Thượng, bà sinh trưởng trong một gia đình theo Nho giáo, được đi học biết làm thơ văn, nên bà có tiếng là người nết na, tài hoa, đức hạnh. Bà được Cụ Phan Bội Châu kết nạp vào Hội Duy Tân (được thành lập năm 1904) và bà được phân công làm liên lạc. Từ đó, trong 45 năm, trải qua biết bao hiểm nguy, gian khổ trên tuyến đường miền Trung và miền Bắc, mọi việc của Hội như chuyển tài liệu, tiền bạc, đưa rước người trong phong trào Đông Du đều ký thác cho bà. Năm Mậu Thân (1908), phong trào chống thuế ở Trung Kỳ nổ ra, bà bị bắt trên đường đi liên lạc. Bà bị tra khảo rất dã man nhưng bà vẫn một lòng son sắt, không tiết lộ một bí mật nào của tổ chức. Không để cho kẻ thù khuất phục, bà làm thơ tuyệt mệnh rồi thắt cổ tự vẫn. Cụ Phan rất cảm phục tinh thần “vì nước quên thân” của bà. Cụ đã đặt cho bà mỹ danh là Bà Ấu Triệu. Lúc bị giam lỏng ở Huế, Cụ đã cho lập một ngôi miếu và dựng một tấm bia ngay trong vườn nhà Cụ để ghi công đức của bà. Cụ Phan làm 4 cặp đối đính trên 4 mặt miếu.
Cặp 1: (Mặt phía bắc):
Sinh nê bất nhiếm hoa quân tử
Bão phát vô ngôn thạch khả nhân
Chương Thâu dịch:
Gần bùn không bẩn: hoa quân tử;
Ôm ngọc làm thinh: đá hiển nhân.
Cặp 2: (Bản gốc chữ Hán, bị xóa)
Theo bản dịch Nôm của Chương Thâu:
Tấm thân trót gả giang san Việt;
Tấc dạ soi chung nhật nguyệt trời.
Cặp 3: Bằng chữ Nôm, (mặt trước, phía nam):
Tơ nhân sợi nghĩa dây lưng trắng
Dạ sắt lòng son nét má hồng
Cặp 4: Bằng chữ Nôm, bản gốc bị xóa, sao lại từ internet:
Câu đối mặt này còn thiếu chữ;
Dám xin đồng chí góp thêm lời.
Chính người phụ nữ Huế tự tạo nên hình ảnh của mình và lưu lại hình ảnh đó trong văn hóa dân tộc.
Đã có quá nhiều công trình nghiên cứu biên soạn lịch sử văn học Việt Nam đề cập đến hình ảnh các “đại gia” thơ nữ Nguyệt Đình, Mai Am, Huệ Phố, Nguyễn Nhược Thị… của thế kỷ XIX và cũng có nhiều người nhắc đến các cây bút nữ xứ Huế “quậy” tưng bừng về “chuyện con gái Huế phá rào” trong giới nhà văn Sài Gòn những thập niên đầu của nửa sau thế kỷ XX như Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Minh Đức Hoài Trinh, Trần Thi Nhã Ca…
Bên cạnh những cây bút nữ vượt rào, đội ngũ các chị cầm cọ cũng khá đông đảo. Phần lớn các cây cọ nữ xuất thân từ trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế. Trong giới mỹ thuật ở miền Nam Việt Nam trước đây không ai không biết tên tuổi các nữ họa sĩ Mộng Hoa, Thái Thị Hạc Oánh (con cụ Thái Văn Toản), Tôn Nữ Cẩm Quỳ (dạy vẽ trường Đồng Khánh), Trần Thị Quỳnh Chi, hai chị em sinh đôi Liên Tâm-Mai Tâm (con nhà yêu nước Bửu Tiếp - bạn đồng chí của Đại tướng Võ Nguyên Giáp), Hoàng Hương Trang, Tôn Nữ Tuyết Mai… Trong giới nữ cầm cọ nổi bật nhất là Tôn Nữ Kim Phượng (sinh 1942) - cháu trực hệ 5 đời của Hoằng Hóa Quận Vương Miên Triện, tốt nghiệp khoá 2 Cao đẳng Mỹ Thuât Huế (1962). Năm 1959, cô được nhận Huy chương Danh dự Viện Đại học Huế. Cuộc triển lãm chính thức đầu tiên của Tôn Nữ Kim Phượng tại Phòng Thông Tin Đô Thành Sài Gòn (cũ) năm 1962, cùng với hai họa sĩ Trịnh Cung và Đinh Cường. Trong phòng tranh này có hai nam, một nữ. Nhưng đặc biệt nét vẽ của cây cọ nữTôn Nữ Kim Phượng có chất nam tính mạnh mẽ hơn Trịnh Cung và Đinh Cường nhiều. Đó là nét độc đáo của Tôn Nữ Kim Phượng. Sau đó, cô được bổ dụng dạy vẽ tại trường Trung học Trần Hưng Đạo, Đà Lạt. Không hiểu sao, mấy năm sau cô bỏ dạy, xuất gia với Pháp danh Nguyên Nghi, đạo hiệu Diệu Trang. Cô mất vào ngày 25/8/2000 tại Huế.
Nha sĩ Phùng Thị Cúc (1922-2002), tuổi tác thuộc thế hệ mẹ, chị cả của các cây cọ xuất thân Cao đẳng Mỹ thuật Huế, nhưng bà tự học và vào nghề vẽ, làm tượng với biệt hiệu Điềm Phùng Thị cùng thời với các cây cọ nữ nêu trên (1959). Nghệ sĩ Điềm Phùng Thị là một trong hai người châu Á vinh dự được có tên trong từ điển Larousse - Nghệ thuật thế kỷ XX. Bà được chọn làm Viện sĩ thông tấn Viện hàn lâm Khoa học - Văn học và Nghệ thuật châu Âu. Tranh và tượng của bà được đặt ở các bảo tàng, trường học, công viên bên Pháp. Trong thập niên cuối thế kỷ XX, bà đã đem một số lượng tranh tượng quý về nơi chôn nhau cắt rốn, thành lập Nhà trưng bày Nghệ thuật Điềm Phùng Thị tại số 1 Phan Bội Châu Huế (1993). Sự nghiệp nghệ thuật của Điềm Phùng Thị là niềm tự hào của Nghệ thuật hiện đại Việt Nam.
Hình ảnh phụ nữ “đặc sản” của Huế nổi tiếng xưa nay là hình ảnh các nghệ nhân ca Huế. Người nghệ sĩ Ca Huế nổi tiếng nhất thế kỷ XX là cô Nhơn. Cô Nhơn tên thật là Lê Thị Mùi (1907). Đề cập đến nghệ thuật ca Huế trong văn hóa Việt Nam, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đều xem cô Nhơn là vị “nữ hoàng” trong ngành nghệ thuật này. Những đàn em có giọng ca Huế quốc gia và quốc tế là Bích Liễu, Châu Loan, Thanh Hương, Minh Mẫn, Thanh Tâm... Nhiều ca sĩ tân nhạc xuất thân trong các gia đình ca Huế nổi tiếng. Ca sĩ ca Huế Bích Liễu sinh ra hai nhạc sĩ - ca sĩ Bảo Chấn và Bảo Huế. Gia đình Uyên Bác thích ca Huế sinh ra ca sĩ Hà Thanh.
Về tân nhạc: Thế kỷ XX, Huế có hai giọng ca tiêu biểu của tân nhạc ở miền Nam Việt Nam. Đó là giọng hát liêu trai trầm buồn của Thanh Thúy và đặc biệt giọng miền Trung thanh thoát trữ tình của Hà Thanh (Trần Thị Lục Hà, sinh năm 1939) vừa nêu trên thuộc thế hệ của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Từ nhiều thập niên cuối thế kỷ XX cho đến nay chưa có một ca sĩ tân nhạc nào có thể tiếp nối được giọng hát Hà Thanh. Hiện nay chị cư trú với gia đình ở miền Đông Hoa Kỳ.
Hình ảnh người phụ nữ Huế nổi bật nhất trong lĩnh vực giáo dục. Người mở đầu việc giáo dục phụ nữ Huế thời hiện đại là bà Đạm Phương nữ sử, tên thật là Công nữ Đồng Canh. Bà là con gái của Hoằng Hóa Quận Vương Miên Triện. Năm 16 tuổi, bà xuất giá lấy ông Hàn Lâm viện Cung phụng Nguyễn Khoa Tùng (1873-1932). Một trong những người con trai của bà là nhà lý luận văn nghệ mác-xít nổi tiếng Hải Triều Nguyễn Khoa Văn (1908-1954) và là bà nội của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Đạm Phương nữ sử nổi tiếng trong nhiều lĩnh vực: Là nhà thơ, tác giả tập Thơ Đạm Phương nữ sử; Đạm Phương - một trong những người phụ nữ Việt Nam đầu tiên viết tiểu thuyết (tiểu thuyết Kim Tú Cầu); Đạm Phương còn là nhà báo. Đạm Phương còn nhiệt tình vận động cho ra đời thêm một tờ báo nữa ở Huế tờ Phụ nữ Tùng san; Đạm Phương - nhà biên khảo về tuồng Hát Bội Việt Nam (Lược khảo về tuồng hát An Nam (tạp chí Nam Phong số 76 tháng 10/1923).
Bà lấy biệt hiệu Đạm Phương. Năm 20 tuổi, bà được mời vào Cung Nguyễn dạy cho các công chúa, nữ quan, cung nữ. Bà dạy giỏi và được Triều đình phong cho bà chức nữ sử nên bà thường ký tên là Đạm Phương nữ sử.
Nhưng bà nổi tiếng nhất về mặt hoạt động xã hội. Với sự khuyến khích của nhà yêu nước Phan Bội Châu, bà cho ra đời Trường Nữ công học hội (1926), cụ Phan Bội Châu làm hội viên danh dự. Trường Nữ công học hội là một tổ chức hội phụ nữ đầu tiên ở nước ta. “Từ chốn buồng the, từ nơi cung cấm, từ những công việc quẩn quanh trong bếp núc, từ những xó tối của kiếp cơ hàn, nhiều phụ nữ đã bước ra khỏi ngưỡng cửa nhà mình, đã vươn tới hòa nhập cùng xã hội bằng những công việc mà hàng trăm năm trước đó chỉ nam giới mới được làm”.
Tinh thần dân tộc và đổi mới của Trường Nữ công học hội được phát triển mạnh mẽ ở trường nữ Trung học Đồng Khánh Huế. Người ta viết nhiều về hình ảnh đẹp của nữ sinh Đồng Khánh suốt thế kỷ qua. Và, người ta cũng không thể không đề cập đến cái thực thể đẹp về nội dung của cô giáo và nữ sinh Đồng Khánh. Năm 1925, cô giáo Trần Thị Như Mân, đã thay mặt nữ sinh ở Huế viết thư gửi Toàn quyền Va-ren đòi thả cụ Phan Bội Châu. Năm 1926, nhiều cô giáo và nữ sinh Đồng Khánh bất chấp sự đe dọa của thực dân Pháp đã tham gia lễ tang cụ Phan Chu Trinh. Năm 1927, nhiều nữ sinh Đồng Khánh đã bãi khóa hưởng ứng cuộc bãi khóa của học sinh Quốc Học phản đối việc đuổi học học sinh yêu nước Nguyễn Chí Diễu. Người cầm đầu cuộc bãi khóa 1927 tại trường Đồng Khánh là nữ sinh Đào Thị Xuân Yến. Sau cuộc bãi khóa, nữ sinh Đào Thị Xuân Yến bị đuổi học. Cô cùng nhiều bạn yêu nước khác ra miền Bắc học dệt giương ngọn cờ dùng hàng nội hóa Việt Nam. Việc học dệt không thành, cô đi học tiếp và đỗ Tú tài Tây tại Hà Nội. Cô Đào Thị Xuân Yến là người phụ nữ miền Trung đầu tiên có bằng Tú Tài Tây. Sau đó cô về Huế và lập gia đình với ông Tuần Nguyễn Đình Chi. Và từ đó cô thường được gọi là bà Tuần Chi/bà Nguyễn Đình Chi. Nhưng không may, bà chung sống với chồng chỉ được 5 năm, ông Tuần mệnh chung. Bà cũng là một mẫu mực trong cách phục sức, giao tiếp. Khi đứng trên bục giảng của trường Đồng Khánh (1953), trên diễn đàn quốc tế, cũng như khi lặn lội trong đêm tối ra vùng chiến khu (1-1968) bà vẫn luôn giữ trên mình chiếc áo dài truyền thống. Bà không phải là người tạo mẫu nhưng bà có một quan niệm mặc áo dài hết sức chuẩn. Kiểu áo và màu áo phải phù hợp với tuổi tác, tôn ti, hoàn cảnh và màu sắc bốn mùa. Đã từ lâu trong giới phụ nữ Huế có cụm từ “màu áo bà Chi”. “Màu áo bà Chi” không có trong bảng màu nhưng giới phụ nữ đều hiểu đó là “màu hài hoà tạo nên sự sang trọng” cho người phụ nữ. Đối với người làm công tác xã hội, bà là người chị cả. Bà đã được mời đi dự Hội nghị Phụ nữ Quốc tế Thái Bình Dương và Đông Nam Á tại Tân Tây Lan (1952), tại Phi Luật Tân (1955) và tại Nhật Bản (1958). Bà hoạt động cho Tổ chức Hồng Thập Tự Quốc tế nhiều năm. Đối với Phật giáo, bà là một Phật tử thuần thánh, bạn của những người lãnh đạo Phong trào Chấn hưng Phật giáo, Hội An Nam Phật học (1932) như Hoà thượng Thích Đôn Hậu, Sư bà Diệu Không, Cư sĩ Lê Đình Thám…
Nhắc đến trường Nữ Công học hội và trường Đồng Khánh, người ta nghĩ ngay đến chuyện nữ công gia chánh ở Huế. Hai ngôi trường nầy đã sớm biết khai thác thế mạnh về văn hóa vật chất của Kinh đô Huế. Từ cuối thế kỷ XIX, bà Trương Đăng Thị Bích - phu nhân của Đại học sĩ Hồng Khẳng, con dâu của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, đã viết cuốn sách Thực Phổ Bách Thiên để dạy con cháu nấu 100 món ăn, bằng 100 bài thơ thất ngôn tứ tuyệt. Bà dạy con cháu từ món ăn bình dân thông thường cho đến các món ngự thiện trong Cung đình. Món bình dân thông thường như:
Thịt kho Tàu (Bài 25)
Kho tàu ba chỉ mỡ cho dày,
Cắt miếng vuông ra hấp mới hay,
Mật muối gia vào cùng nước mắm,
Trong, mềm, vừa mặn,thiệt ngon thay.
Món Cung đình:
Gỏi Dê (Bài 18)
Thịt dê xắt nhỏ cũng in rau,
Chả rối, heo ria, luộc bún tàu,
Bánh tráng mè rang, xương nấu nước,
Tương đường mỡ tỏi ruốc năm màu…,
Năm 1915, cuốn sách được in và phát hành rộng rãi. Hơn 10 năm sau, Trường Nữ Công học hội tiếp nối công việc của tác giả Thực Phổ Bách Thiên, cho ra đời nhiều cuốn sách dạy nấu ăn. Một người học trò xuất thân trường Nữ Công học hội là cô Hoàng Thị Kim Cúc - cháu cụ Hoàng Thông như đã đề cập ở trên, đem những kiến thức và kinh nghiệm nấu các món ăn theo lối Huế dạy cho nữ sinh Đồng Khánh. Các giáo trình dạy nấu ăn của cô đúc kết thành một cuốn sách dày giới thiệu 60 thực đơn bốn mùa với 600 món ăn “nấu theo lối Huế”. Ngoài những thực đơn mặn còn có nhiều thực đơn chay. Cô Hoàng Thị Kim Cúc đã đào tạo được nhiều phụ nữ nấu ăn theo lối Huế giỏi và hiện rất nổi tiếng ở trong và ngoài nước như các bà Nguyễn Thị Đoàn (bà Châu Trọng Ngô), bà Hoàng Thị Khương (bà Tôn Thất Long), bà Mai Thị Trà (bà Phan Xuân Sanh)…
Một người học trò của cô Hoàng Thị Kim Cúc nấu ăn nổi tiếng thế giới hiện nay là cô Hoàng Thị Như Huy. Đến cô Huy, nấu ăn theo lối Huế đã nâng lên thành nghệ thuật. Cô Huy đã cho ra đời tác phẩm “Nghệ thuật ẩm thực Huế”.
Người cùng thời và cùng xuất thân trường Nữ Công học hội và trường Đồng Khánh với bà Nguyễn Đình Chi và thuộc thế hệ chị cả của cô Hoàng Thị Kim Cúc là bà Hồ Thị Hạnh (1905), con gái của Đại thần Hồ Đắc Trung, em ruột của những người có tên tuổi như Tổng đốc Hồ Đắc Điềm, bác sĩ Hồ Đắc Di, Đệ nhất Giai phi của vua Khải Định Hồ Thị Chỉ, Sư bà Diệu Huệ (thân mẫu của nhà bác học Bửu Hội)… Tuổi nhỏ, bà theo Nho học, lớn lên theo Tây học. Bà xuất gia với đạo hiệu Thích nữ Diệu Không thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42. Năm 1933, bà thành lập Ni viện ở Tổ đình Từ Đàm. Năm 1934, lập nên Ni viện Diệu Đức - Ni viện đầu tiên ở Huế. Năm 1938, bà vào chùa Giác Linh, tỉnh Sa Đéc để lập trường đào tạo Ni giới cho Nam bộ… Năm 1963, tham gia phong trào tranh đấu Phật giáo để chống lại chính sách bất bình đẳng tôn giáo của dòng họ Ngô, bà liền tham gia cuộc tuyệt thực ở chùa Ấn Quang. Khi Ủy ban Liên phái quyết định có thể phải hy sinh thân mạng, bà xin tự thiêu trước. Nhưng rồi, Ni chúng phải y theo Tăng chúng, Hòa thượng Thích Quảng Đức được vị Pháp thiêu thân trước. Cũng thời gian đó, bà bí mật nhờ cháu là bác sĩ Bửu Hội đưa hồ sơ chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo ra nước ngoài. Nhờ đó, thế giới biết rõ tội ác của chính quyền Diệm. Năm 1964, bà dựng chùa Diệu Giác ở Thủ Đức và góp phần xây dựng Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn (cũ). Năm 1965-1966, lại một lần nữa bà dấn thân cho cuộc tranh đấu đòi dân chủ dân quyền.
Năm 1970, bà biến trụ sở nhà in Liên Hoa cũ thành Tịnh xá Kiều Đàm, tổ chức đào tạo cán bộ y tế cấp tốc, lập các trạm y tế Hồng Ân, Diệu Đế, Hòa Lương để cứu giúp dân bị thương tích trong chiến tranh. Năm 1975, tổ chức các hoạt động hưởng ứng công cuộc Giải phóng miền Nam. Năm 1986, tuy tuổi già sức yếu, bà vẫn đứng ra vận động và trực tiếp trùng tu chùa Đông Thuyền. Về văn hóa, bà đã để lại những áng thơ hay, nhiều bản dịch kinh, luận như: Kinh Lăng Già Tâm Ấn, Đại Trí Độ Luận, Thành Duy Thức Luận, Kinh Duy Ma Cật. Bà quản lư hai tờ báo Phật giáo Viên Âm và Liên Hoa từ số đầu tiên cho đến ngày đình bản. Sư bà viên tịch vào ngày 23/8 năm Đinh Sửu (nhằm ngày 24-9-1997), hưởng thọ 93 tuổi. Sư bà Thích Nữ Diệu Không - vị ni trưởng số 1 của Phật giáo Việt Nam Thế kỷ XX. Sư bà đã đào tạo ra nhiều ni sư tên tuổi.Người học trò vượt trội về Phật học, đức hạnh, trí thức của Sư bà là Ni sư Thích nữ Trí Hải.
Ni sư Thích Nữ Trí Hải, người học trò của Sư Bà Thích Nữ Diệu Không, thế danh Công Tằng Tôn Nữ Phùng Khánh (1938), cháu của Tuy Lý Vương, cựu học sinh trường Đồng Khánh, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế, được bổ dụng dạy Anh văn trường Phan Chu Trinh - Đà Nẵng. Năm 1960, bà du học Mỹ và tốt nghiệp Cao học ngành Thư viện (M.A). Cuối năm 1963, bà về nước gặp lúc Viện Cao đẳng Phật học Việt Nam ra đời, bà đã cùng với em gái là Tôn Nữ Phùng Thăng vâng lời Hòa thượng Trí Thủ đến phụ tá Ni trưởng chùa Phước Hải, quán xuyến cư xá Nữ Sinh Viên và làm việc tại chùa Pháp Hội. Sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975), Ni sư đã được cử làm Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam.
Ngoài những hoạt động giáo dục, hoằng pháp, bà còn dành nhiều thời gian cho việc phiên dịch như các tác phẩm Câu chuyện dòng sông của Đại văn hào Hermann Hesse, Gandhi tự truyện, Câu chuyện triết học, Thanh tịnh đạo luận, Thắng Man, Tạng thư Sống Chết, Giải thoát trong lòng tay. Ni trưởng còn trước tác một số tác phẩm khác mà quan trọng nhất là các bản Toát yếu Trung Bộ Kinh (3 tập).
Bài viết này chỉ là những nét khái quát rất sơ lược. Nhiều hình ảnh phụ nữ Huế tiêu biểu trong di sản văn hóa chưa được đề cập đến như hình ảnh bà Hoàng Thái hậu Từ Cung, bà Chúa Nhất, Hoàng hậu Nam Phương, các nghệ nhân Hát Bội, các nhà thơ nữ xứ Huế (như Tôn Nữ Thu Hồng, Tôn Nữ Hỷ Khương, Minh Đức Hoài Trinh…), các nghệ sĩ nhiếp ảnh (Đào Hoa Nữ, Tôn Nữ Hà), thiết kế thời trang (Minh Hạnh), nhà ngoại giao (Tôn Nữ Thị Ninh)… Tuy nhiên với những dẫn chứng sơ lược trên cũng đã cho thấy người phụ nữ Huế đã chứng tỏ họ bình đẳng với nam giới, có nhiều lĩnh vực họ vượt cả nam giới.